GIÁO DỤC CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP  

GIÁO DỤC CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP

 PGS, TS. Trần Hải Minh

Lịch sử phát triển nhân loại, dưới góc độ giá trị học, là quá trình con người sáng tạo ra giá trị và hưởng thụ các giá trị đó.

Trong hệ thống các giá trị cấu thành hệ giá trị văn hóa và con người Việt Nam, chủ nghĩa yêu nước là giá trị đứng đầu và chi phối các giá trị khác. Được hun đúc từ lịch sử dựng nước và giữ nước hào hùng của dân tộc, chủ nghĩa yêu nước đã trở thành động lực tinh thần to lớn giúp nhân dân ta chiến thắng mọi cuộc xâm lăng của kẻ thù, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và bản sắc văn hóa dân tộc.

Trong bối cảnh hiện nay, khi quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ và tác động có tính chất hai mặt tới tất cả các quốc gia trên thế giới; khi các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới vẫn tồn tại và biểu hiện dưới các hình thức và mức độ khác nhau; khi những nguy cơ, thách thức to lớn vẫn đang đặt ra hàng ngày với sự tồn tại và hưng thịnh của dân tộc thì việc kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống, đặc biệt là truyền thống yêu nước, ngày càng trở nên vô cùng cấp bách với cách mạng nước ta. Vì vậy, cần có những giải pháp nhằm kế thừa và phát huy truyền thống yêu nước trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

  1. Chủ nghĩa yêu nước – giá trị đạo đức hàng đầu của dân tộc Việt Nam

Khái niệm chủ nghĩa yêu nước

Yêu nước là tư tưởng và tình cảm phổ biến của nhân dân mọi quốc gia, dân tộc trên thế giới. Xét trên phạm vi toàn nhân loại, có thể nói yêu nước là một giá trị đạo đức phổ biến của nhân loại ra đời và phát triển cùng với sự phát triển của các hình thức cộng đồng người trong những giai đoạn lịch sử nhất định và trên những lãnh thổ nhất định. Tuy nhiên, sắc thái biểu hiện và mức độ đậm nhạt của các giá trị đạo đức này cũng khác nhau ở các dân tộc khác nhau. Đối với dân tộc Việt Nam, “tình yêu Tổ quốc, lòng yêu nước của người Việt Nam không phải là cái cá biệt, nhất thời, mà đã trở thành một cái trục chính của ý thức hệ Việt Nam”. Đó là một giá trị truyền thống đứng đầu trong các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam, “là cội nguồn sản sinh và nuôi dưỡng các giá trị tiêu biểu của văn hóa Việt Nam”. Vì vậy, có thể khẳng định rằng: “lòng yêu nước đã trở thành chủ nghĩa yêu nước”[1].

Một cách khái quát, với tư cách là một giá trị đạo đức truyền thống, chủ nghĩa yêu nước là hệ thống những nguyên tắc, quy tắc và phương thức ứng xử thể hiện tình yêu và lòng trung thành với Tổ quốc, tinh thần sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc. Chủ nghĩa yêu nước có thể được thể hiện qua tình cảm, qua tư tưởng và hệ thống tư tưởng, qua hệ thống chuẩn mực, đánh giá, lý tưởng đạo đức cấu thành ý thức yêu nước, là động cơ và định hướng cho những hành vi tự giác, tự nguyện, tận tâm vì lợi ích Tổ quốc.

Nguồn: Internet

Những nội dung chủ yếu của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam trong bối cảnh hiện nay

Trước tiên, cần khẳng định một nội dung cơ bản của chủ nghĩa yêu nước (CNYN) Việt Nam mà ở thời đại nào cũng có, đó là tình yêu và sự gắn bó với quê hương, đất nước. Chính tình yêu và sự gắn bó với quê hương này là động lực quan trọng thúc đẩy hành động tự nguyện, tự giác vì lợi ích đất nước. Ngày nay, tình cảm yêu nước cần phải được gắn với nhận thức sâu sắc về đất nước, về dân tộc, để từ đó tình yêu và sự gắn bó ấy không chỉ thiên về cảm tính, cảm nhận bề ngoài hay chỉ thu hẹp trong sự gắn bó với địa phương nơi mình sinh ra mà đó là một tình cảm sâu sắc, rộng lớn và được củng cố bởi nhận thức về đất nước, bởi sự hiểu biết và niềm tự hào về lịch sử vẻ vang của dân tộc. Không chỉ thế, tình cảm yêu nước còn phải gắn chặt với yêu CNXH, yêu chế độ xã hội mà chúng ta đang xây dựng. Trong thời đại ngày nay, quá độ lên CNXH là một tất yếu lịch sử. Thực tế phát triển đất nước trong những năm qua đã cho thấy ngày một rõ hơn tính đúng đắn của con đường đi lên CNXH mà Đảng ta đã lựa chọn. CNXH là xã hội của dân, do dân, vì dân. Bởi thế, yêu nước và yêu CNXH thống nhất với nhau nhằm đem lại tự do và hạnh phúc cho nhân dân. Tuy nhiên, tình cảm yêu nước chỉ có thể gắn bó với yêu CNXH một cách bền lâu trong những người giác ngộ lý tưởng cộng sản chủ nghĩa. Do đó, nội dung tiếp theo cần được kế thừa và đổi mới của CNYN hiện nay chính là phải giác ngộ sâu sắc lý tưởng cộng sản chủ nghĩa. Đây là một nội dung xuyên suốt và chi phối các nội dung khác của CNYN trong thời đại ngày nay.

Cùng với tình cảm và lý tưởng yêu nước, ý thức tự hào dân tộc cũng là một nội dung quan trọng của CNYN. Ngày nay, ý thức tự hào về truyền thống tốt đẹp, về lịch sử vẻ vang của dân tộc cần phải được bổ sung thêm bởi ý thức tự hào về CNXH, về mục tiêu dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đó là động lực tinh thần to lớn cho những hành động yêu nước, vì lợi ích Tổ quốc.

Ở thời đại nào cũng vậy, một người yêu nước có tình cảm và lý tưởng tốt đẹp,có lòng tự hào dân tộc, chỉ thực sự được đánh giá là một người yêu nước khi người đó đặt lợi ích Tổ quốc lên trên hết và sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì lợi ích Tổ quốc. Trong thời kỳ chiến tranh, điều này được thể hiện rất rõ trong hành động quyết tử để Tổ quốc quyết sinh của những chiến sĩ ngoài mặt trận, là sự hy sinh của những người mẹ, người chị nơi hậu phương. Tất cả những sự hy sinh đó đều vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Ngày nay, khi đất nước được hòa bình, cả nước đang tiến hành sự nghiệp đổi mới, chuyển sang kinh tế thị trường định hướng XHCN, việc nỗ lực làm giàu chân chính là một hành vi yêu nước cần được khuyến khích vì lợi ích đưa dân tộc dần thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu. Song điều đó không có nghĩa là nguyên tắc đặt lợi ích dân tộc lên trên hết không còn phát huy tác dụng. Bởi vì, trong điều kiện hiện nay nguyên tắc này chính là vì yêu cầu nhằm hạn chế mặt tác động tiêu cực của kinh tế thị trường (KTTT) ở chỗ KTTT khuyến khích lợi ích cá nhân nên nhiều khi đã dẫn đến chủ nghĩa cá nhân cực đoan mâu thuẫn với lợi ích dân tộc. Làm giàu chính đáng vì lợi ích bản thân và sự phồn thịnh của quốc gia là một biểu hiện của sự kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân và lợi ích dân tộc.

Tuy nhiên, nói nhiệm vụ xây dựng Tổ quốc được đặt lên hàng đầu không có nghĩa là xem nhẹ nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Bởi vì, “trong điều kiện lịch sử mới hiện nay, xây dựng và bảo vệ đang xâm nhập lẫn nhau đến mức xây là gốc của bảo vệ và bảo vệ là bộ phận hợp thành của xây dựng” [2]. Như thế, xây dựng Tổ quốc giàu mạnh cũng chính là bảo vệ Tổ quốc. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nhất là trong bối cảnh hiện nay, khi mà sự nô dịch, áp bức dân tộc không chỉ dưới hình thức nô dịch, áp bức về chính trị mà còn là nô dịch, áp bức về kinh tế. Mỗi dân tộc bị lệ thuộc về kinh tế sẽ dẫn tới bị lệ thuộc về chính trị. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, giàu mạnh, vì vậy, chính là góp phần vào sự nghiệp bảo vệ nền độc lập tự do của Tổ quốc.

Hiện nay, xu thế toàn cầu hóa đang chi phối mọi quốc gia dân tộc trên thế giới. Thách thức đặt ra đối với đất nước ta trong quá trình hội nhập đòi hỏi mỗi người yêu nước phải phát huy cao độ ý chí độc lập, tự chủ, bản lĩnh kiên cường, quyết tâm bảo vệ lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Ngoài ra, yêu nước trong bối cảnh toàn cầu hóa còn phải đề cao nhiệm vụ giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, giữ gìn vốn quý của cha ông. Bài học lớn rút ra từ lịch sử là nếu đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc thì có nghĩa là đánh mất tất cả. Hơn lúc nào hết, đây là một nội dung quan trọng của CNYN trong điều kiện hiện nay.

Một nội dung khác của CNYN cần được kế thừa và đổi mới trong bối cảnh toàn cầu hóa đó là sự kết hợp giữa CNYN với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân. Đây cũng là một nét đặc trưng trong thời kỳ quá độ lên CNXH, khi mà trên thế giới còn tồn tại nhiều chế độ xã hội khác nhau thì “cùng tồn tại hòa bình” là một nguyên tắc cần được tôn trọng trong quan hệ quốc tế. Đảng ta kiên trì đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, vì lợi ích quốc gia dân tộc, vì một nước Việt Nam XHCN giàu mạnh.

Không chỉ thế, trước yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH trong giai đoạn cách mạng khoa học – công nghệ phát triển mạnh mẽ thì yêu nước cần phải gắn với yêu khoa học, yêu tri thức. Không ngừng học tập và sáng tạo ra tri thức mới để góp phần đẩy nhanh sự nghiệp CNH, HĐH là yêu cầu của CNYN không chỉ với những trí thức, mà mọi người dân. Có như vậy chúng ta mới hy vọng thoát khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế, mới hội nhập được với xã hội thông tin, kinh tế tri thức, mới xây dựng được cơ sở vật chất – kỹ thuật cho CNXH. Như thế con người Việt Nam yêu nước trong sự nghiệp đổi mới là con người phát triển toàn diện về mọi mặt năng lực và phẩm chất đạo đức. Không ngừng nâng cao năng lực, nâng cao tri thức cũng là một yêu cầu đạo đức, một nội dung của CNYN trong giai đoạn hiện nay.

Ngoài ra, trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước, chúng ta cũng cần phải kế thừa tinh thần đại đoàn kết dân tộc với tư cách là một nội dung quan trọng của CNYN qua các thời kỳ lịch sử. Yêu nước gắn liền với đại đoàn kết dân tộc ngày nay phải dựa trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đại đoàn kết dân tộc chính là “động lực chủ yếu để phát triển đất nước”[3].

Nguồn: Internet
  1. Nâng cao hiệu quả giáo dục chủ nghĩa yêu nước trong bối cảnh hiện nay – Một số giải pháp

Có thể nói, giáo dục và đào tạo là cơ chế chủ đạo để hình thành và phát triển nhân cách. Thông qua hoạt động giáo dục và tự giáo dục, con người lĩnh hội được vốn văn hóa mà thế hệ trước đó đã tạo ra và truyền lại cho họ. Giáo dục có thể nói là con đường đặc trưng để loài người tồn tại và phát triển. Giáo dục chính là nơi gìn giữ, truyền thụ và phát huy hệ thống giá trị chung của loài người, hệ thống giá trị truyền thống dân tộc, giáo dục đào tạo ra con người và các thế hệ tiếp nối sáng tạo ra các giá trị[4]. Như thế, muốn kế thừa và phát huy truyền thống yêu nước trong xây dựng nhân cách con người Việt Nam hiện nay phải hết sức quan tâm tăng cường giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho mọi tầng lớp nhân dân.

Muốn giáo dục CNYN, trước hết cần quan tâm tới nội dung giáo dục. Đó chính là nội dung của CNYN đã được kế thừa và đổi mới cho phù hợp với điều kiện hiện nay. Về cơ bản, phải quán triệt sâu sắc lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, cùng với lý tưởng xuyên suốt là tình yêu và sự gắn bó với đất nước, tinh thần tự hào dân tộc, khát vọng làm giàu chân chính, tinh thần đoàn kết, tình yêu tri thức và ham học hỏi, ý chí độc lập tự chủ, giữ vững bản sắc dân tộc,… Những nội dung này có thể được chuyển tải dưới nhiều hình thức biểu hiện khác nhau, như trong sách giáo khoa đạo đức, trong các tác phẩm văn học, nghệ thuật,….

Trong các lĩnh vực giáo dục, giáo dục đạo đức có vị trí và vai trò vô cùng quan trọng. Giáo dục đạo đức vừa có tính chất độc lập tương đối, vừa thâm nhập vào nội dung các lĩnh vực giáo dục khác như giáo dục pháp luật, giáo dục chính trị, giáo dục thẩm mỹ,…. Vì vậy, bên cạnh việc giáo dục nội dung CNYN một cách trực tiếp thông qua giáo dục đạo đức, thì có thể và cần phải thể hiện nội dung này trong những lĩnh vực giáo dục khác nhằm tạo hiệu quả đồng bộ, toàn diện. Ví dụ như giáo dục ý thức tự hào dân tộc thông qua việc học tập môn lịch sử ở nhà trường. Nhưng cũng cần nhận thấy đây là một nhiệm vụ không dễ dàng. Thực tế giáo dục lịch sử với những bất cập hiện nay cho thấy rõ điều đó.

Để giáo dục đạo đức, mà cụ thể là giáo dục CNYN đạt hiệu quả, chúng ta cần phải tuân theo một số nguyên tắc cơ bản: thứ nhất, kết hợp giáo dục và tự giáo dục, tự rèn luyện đạo đức; thứ hai, kết hợp hai phương diện, truyền đạt và nêu gương; thứ ba, kết hợp chặt chẽ giữa các môi trường giáo dục: gia đình, nhà trường, xã hội,…

Nếu như giáo dục là quá trình tác động qua lại giữa chủ thể giáo dục và khách thể giáo dục thì tự giáo dục là cá nhân tự chiếm lĩnh tri thức, kinh nghiệm thông qua nỗ lực của bản thân. Tự giáo dục phản ánh rõ nét tính tích cực của con người trong mối quan hệ với môi trường. Tự giáo dục bao gồm khả năng tự nhận thức, tự đánh giá, tự kiểm tra, tự điều tiết của nhân cách. Sự phát triển những khả năng này sẽ tạo điều kiện, kích thích con người tích cực hướng tới và tiếp nhận có lựa chọn những tác động từ phía xã hội theo hướng thuận lợi cho sự phát triển nhân cách[5]. Giáo dục và tự giáo dục có tác động qua lại, liên hệ chặt chẽ với nhau. Kết hợp giáo dục và tự giáo dục CNYN sẽ góp phần nâng cao hiệu quả và chất lượng của giáo dục đạo đức trong việc hình thành và phát triển nhân cách.

Để giáo dục CNYN đạt hiệu quả, chúng ta còn cần phải kết hợp chặt chẽ giữa phương diện truyền đạt và phương diện nêu gương trong quá trình giáo dục. Phương diện truyền đạt trực tiếp cung cấp cho người được giáo dục những nội dung của CNYN dưới dạng tri thức. Nếu chỉ truyền đạt đơn thuần thì giáo dục đạo đức nói chung và giáo dục CNYN nói riêng sẽ kém hiệu quả vì những tri thức muốn chuyển hóa thành giá trị, thành nhu cầu bên trong cho hành động của đối tượng giáo dục cần phải có một quá trình lâu dài. Kết hợp phương diện truyền đạt và phương diện nêu gương – sự tác động vào ý thức con người bằng những tấm gương người tốt việc tốt – sẽ góp phần quan trọng vào việc biến những kiến thức mà con người thu nhận được thành sức mạnh bên trong của nhân cách. Những tấm gương người tốt, việc tốt trong giáo dục CNYN có thể là những anh hùng, danh nhân của dân tộc như Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi, Phan Bội Châu,… trong đó tiêu biểu nhất là tấm gương nhân cách Hồ Chí Minh – người hội tụ tất cả những giá trị tiêu biểu của con người Việt Nam yêu nước, hiện thân cho sức mạnh Việt Nam, bản lĩnh Việt Nam. Phong trào Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là tiêu biểu của phong trào noi gương đạo đức ở nước ta hiện nay.

Ngoài ra, sự kết hợp chặt chẽ giữa các môi trường giáo dục: gia đình, nhà trường, xã hội cũng là một trong những nguyên tắc cơ bản trong giáo dục đạo đức nói chung và giáo dục CNYN nói riêng. Nhân cách con người hình thành, phát triển và củng cố trong quá trình tham gia hoạt động và các quan hệ xã hội. Thông qua sự kết hợp chặt chẽ giữa các môi trường giáo dục, CNYN sẽ được nội tâm hóa vào nhân cách mỗi cá nhân, nhờ đó, tạo nên bản sắc dân tộc của nhân cách. Trong giáo dục nói chung và giáo dục CNYN nói riêng, cần chú ý sự hòa nhập của cá nhân vào môi trường giáo dục. Việc tạo ra cơ chế hòa nhập của cá nhân vào môi trường giáo dục là điều kiện để giáo dục nhân cách hiệu quả.

Tuy nhiên, nếu chỉ giáo dục CNYN thôi thì chưa đủ. Giáo dục ấy cần gắn với hoạt động thực tiễn của con người. Gắn lý luận với thực tiễn là yêu cầu quan trọng của giáo dục, cũng là yêu cầu quan trọng trong xây dựng nhân cách. CNYN phải biến thành hành động yêu nước của mỗi cá nhân, của cộng đồng. Vì vậy, cần đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước nhằm biến những nội dung giáo dục đạo đức thành hành động cải biến thực tiễn, góp phần biến đổi hiện thực đạo đức. Từ đó, nhân cách con người phát triển toàn diện.

Nói tóm lại, trong hệ thống các giá trị cấu thành nhân cách con người Việt Nam, CNYN là giá trị đứng đầu và chi phối các giá trị khác. Điều này được cắt nghĩa bởi thực tiễn dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, bởi nội dung phong phú và sâu sắc của CNYN Việt Nam trong lịch sử và cũng bởi vai trò quan trọng của CNYN đối với nhân cách con người Việt Nam. Chính CNYN đã góp phần tạo nên những nhân cách lớn của dân tộc Việt Nam. Giá trị đạo đức này không chỉ tồn tại ở vài cá nhân riêng lẻ mà trong cả cộng đồng, cả dân tộc, không ngừng được củng cố và phát triển trong lịch sử dân tộc, vì vậy, đã trở thành truyền thống dân tộc quý báu cần được kế thừa và phát huy vì một nước Việt Nam độc lập, dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.

 

Tài liệu tham khảo

 

  1. Hồ Chí Minh (1998), Về chủ nghĩa Mác – Lênin, chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, Nxb CTQG, H.
  2. Trần Văn Giàu (1980), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb KHXH, H.
  3. Phạm Minh Hạc (2001), Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào CNH, HĐH, Nxb CTQG, H.
  4. Nguyễn Văn Huyên (cb) (2002), Mấy vấn đề triết học về xã hội và phát triển con người, Nxb CTQG, H.
  5. Phan Ngọc (2002), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn học, H.
  6. Trần Xuân Trường (1981), Mấy vấn đề về CNYN XHCN ở Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, H.
  7. Trần Xuân Trường (1996), Định hướng XHCN ở Việt Nam – Một số vấn đề lý luận cấp bách, Nxb CTQG, H.
  8. Nguyễn Văn Phúc (1998), Về sự khắc phục những tác động tiêu cực của CNH, HĐH đối với sự phát triển nhân cách, Tạp chí Triết học (1), tr. 13-16.
  9. Nguyễn Văn Phúc (1999), Về một số giải pháp xây dựng nhân cách đạo đức hiện nay, Tạp chí Triết học (4), tr. 5-7.

[1] Xem thêm: Phạm Thị Ngọc Trầm (2001), Các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống Việt Nam trước xu thế toàn cầu hóa, Tạp chí Triết học (7), tr. 17-20.

[2] Trần Xuân Trường (1996), Định hướng XHCN ở Việt Nam – Một số vấn đề lý luận cấp bách, Nxb CTQG, H., tr. 212.

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H., tr. 86

[4] Phạm Minh Hạc (2001), Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào CNH, HĐH, Nxb CTQG, H., tr. 92

[5] Nguyễn Văn Phúc (1998), Về sự khắc phục những tác động tiêu cực của CNH, HĐH đối với sự phát triển nhân cách, Tạp chí Triết học (1), tr. 13-16

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

setTimeout(() => { // jQuery('#breadcrumbs>span>span>span>span').remove(); }, 2000);